Ngay lúc bạn quan sát nó, cảm nhận trường năng lượng của nó, sự hung hãn của nó trong lòng bãn, và chú tâm đến nó, thì tình trạng đồng hóa bị tan rã. Sau đó, dần dà tập trung nhiều hơn vào cảm nhận. khi tình hình này diễn ra – và nó không ngừng xảy ra cho hầu hết mọi người – bạn không còn lưu trú trong cơ thể mình được.
chúng ta đã bàn về vấn đề này rồi. Ông dùng thuật ngữ Bản thể hiện tiền (Being) nhằm ám chỉ điều gì? Cảm giác tội lỗi, ân hận, phẫn nộ, bất bình, buồn bã, cay đắng và tất cả mọi cảm xúc thù hận đều do hồi tưởng quá nhiều đến quá khứ mà ít trụ ở hiện tiền.
Quán tưởng như thế chừng vài lần, mỗi lần kéo dài chừng một phút. Ông nói rằng xúc cảm là phản ánh của tâm trí in vào cơ thể. Ánh chớp satori của bạn có thể chỉ kéo dài được vài giây trước khi tâm trí hiện hành trở lại, nhưng nó vẫn còn ở đó; bằng không, bạn sẽ không trải nghiệm được vẻ đẹp.
Chẳng phải quá khứ và tương lai là có thật, đôi khi thậm chí còn chân thật hơn cả hiện tại đó sao? Xét cho cùng, quá khứ xác định con người chúng ta, cũng như cách nhận thức và cư xử trong hiện tại. Thoạt đầu, bạn có thể chỉ thoáng thấy nó thôi, nhưng nhờ đó bạn sẽ bắt đầu nhận ra mình không chỉ đơn thuần là một mảnh vụn vô nghĩa trong một vũ trụ lạ lẫm, dật dờ trong thoáng chốc giữa sinh và tử, lãnh thọ một vài khoái lạc ngắn ngủi để rồi phải chịu khổ đau và sau cùng bị tan biến đi. Chỗ đó nằm trong lãnh vực thực dụng của cuộc sống thường ngày.
Bởi vì tất cả các thế giới đều tương thông với nhau, nên khi ý thức tập thể của loài người chuyển hóa, thì thiên nhiên và vương quốc các loài vật sẽ phản ảnh sự chuyến hóa ấy. Làm sao ông dạy con cá bay cho được? Tự ngã hư ngụy tin rằng nhờ có tiêu cực nó có thể lèo lái thực tại để nắm lấy những thứ nó muốn.
Người không biết khoan dung nhất định phải gánh chịu thời gian tâm lý rất nặng nề. Bạn thấy nó dưới dạng các thân xác (các cơ thể) cùng hiện tượng sinh và tử, hay như là một cuộc đấu tranh sinh tồn. Tuy việc làm của cả nhóm là vô giá, nhưng vẫn chưa đủ, và bạn không cần phải lệ thuộc vào nó.
Bởi vì họ không tĩnh lặng, không hiện trú, cho nên họ không thực sự thấy đóa hoa, không cảm nhận được cái tinh hoa của nó, tính linh thiêng của nó – giống như họ không biết rõ chính họ, không cảm nhận được cái tinh hoa của chính họ, tính linh thiêng của chính họ vậy. Nhờ lưu trú ở hoàn cảnh, biến cố, hay con người mà nó xem là nguyên nhân gây ra xúc cảm, ý nghĩ cung ứng năng lượng cho xúc cảm ấy, rồi xúc cảm ấy lại cung cấp năng lượng cho khuôn mẫu suy nghĩ, và vân vân…. Lúc ấy, cái Tôi giả lập và bất hạnh vốn ưa thích cảm giác khốn khổ, bực dọc, hay hối tiếc cho chính nó có thể không tồn tại được nữa.
Về mặt sinh lý, rõ ràng bạn không toàn vẹn, và sẽ không bao giờ được như thế: Bạn là người nam hoặc người nữ, tức là một nửa của cái toàn vẹn. Mặc dù biện pháp phòng ngừa như vậy, đại đa số các Phật tử vẫn cứ tin rằng giác ngộ chỉ dành riêng cho Đức Phật thôi, chứ không dành cho họ, ít ra là không trong kiếp này. Khi nó được hướng vào bên trong, nó nhận ra Cội Nguồn của mình để trở về nhà tiến vào cõi Bất thị hiện.
Đây là cơ chế của vô minh, của sự mê muội. Tác phẩm A Course of Miracles thật hợp lý khi vạch rõ rằng bất cứ lúc nào thấy bất hạnh, bạn đều tin tưởng một cách vô minh rằng bất hạnh ấy sẽ “bù đắp cho bạn” bằng cách đem đến cho bạn những thứ bạn muốn có. Cho đến nay hầu như không ai hiểu được các mảnh vụn nấy hay ý nghĩa ẩn dụ của một số huyền thoại như thế, và niềm tin “mi không phải là thân xác của mi” đã phổ biến khắp nơi, dẫn đến sự chối bỏ thân xác và cố gắng thoát khỏi sự ràng buộc của nó.
Nhưng giờ đây có thêm một chiều kích khác. Đây là ý nghĩa huyền bí của nghệ thuật giả kim cổ đại: chuyển hóa kim loại căn bản thành vàng ròng, chuyển hóa khổ đau thành trí tuệ. Chỉ có ánh sáng mới nhận ra ánh sáng.